Vạt tại chỗ là gì? Các công bố khoa học về Vạt tại chỗ

Vạt tại chỗ là kỹ thuật y học quan trọng, đặc biệt trong phẫu thuật thẩm mỹ và phục hồi, dùng để che phủ các khu vực thiếu mô bằng cách sử dụng mô có nguồn máu gốc. Các loại vạt gồm vạt xoay, vạt trượt và vạt di chuyển, mỗi loại có ứng dụng riêng như sửa chữa khuyết điểm mặt, tái tạo ngực và phục hồi sau chấn thương. Lợi ích của vạt tại chỗ là cải thiện thẩm mỹ và chức năng với màu sắc và kết cấu mô phù hợp, nhưng thách thức gồm yêu cầu kỹ thuật cao và nguy cơ nhiễm trùng.

Vạt Tại Chỗ: Khái Niệm Cơ Bản

Vạt tại chỗ là một khái niệm quan trọng trong y học, đặc biệt là trong lĩnh vực phẫu thuật thẩm mỹ và phục hồi. Đây là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một mảnh mô được tách ra một phần từ vị trí gốc của nó nhưng vẫn duy trì nguồn cấp máu ban đầu. Mục tiêu của việc sử dụng vạt tại chỗ là để che phủ một khu vực của cơ thể bị khuyết mô do chấn thương, phẫu thuật cắt bỏ tổn thương hoặc các nguyên nhân khác.

Các Loại Vạt Tại Chỗ

Có nhiều loại vạt tại chỗ khác nhau, mỗi loại có các ưu nhược điểm riêng. Các loại phổ biến bao gồm:

  • Vạt xoay: Được tạo bằng cách xoay miếng mô xung quanh một điểm neo. Thường được sử dụng trong các vùng có nhiều mô thừa hoặc da lỏng lẻo.
  • Vạt trượt: Mô được kéo từ một vị trí liền kề lên vị trí cần che phủ. Phương pháp này thường áp dụng cho các vùng nhỏ.
  • Vạt di chuyển: Tương tự như vạt trượt nhưng áp dụng cho các vùng lớn hơn và cần nhiều mô bù đắp hơn.

Ứng Dụng Trong Y Học

Vạt tại chỗ có nhiều ứng dụng trong y học, cụ thể là trong phẫu thuật thẩm mỹ và tái tạo. Một số ứng dụng bao gồm:

  • Phẫu thuật thẩm mỹ: Sửa chữa các khuyết điểm trên mặt như mất mô do ung thư da hoặc tai nạn.
  • Tái tạo ngực: Sử dụng vạt tại chỗ để tái tạo ngực sau khi cắt bỏ ung thư.
  • Phục hồi sau chấn thương: Ví dụ như trong các ca phẫu thuật cho vết thương lớn hoặc nghiêm trọng.

Lợi Ích Và Thách Thức

Vạt tại chỗ mang lại nhiều lợi ích như khả năng sử dụng mô có màu sắc và kết cấu giống với mô tại vùng cần che phủ, từ đó cải thiện thẩm mỹ và chức năng. Tuy nhiên, cũng có những thách thức nhất định, bao gồm yêu cầu kỹ thuật cao, nguy cơ nhiễm trùng và khả năng không thành công do thiếu máu nuôi dưỡng cho vạt mô.

Kết Luận

Vạt tại chỗ là một giải pháp hiệu quả trong y học để xử lý các vấn đề về khuyết mô. Dù mang lại nhiều lợi ích, các phẫu thuật liên quan đến vạt tại chỗ đòi hỏi tay nghề cao và sự chuẩn bị kỹ lưỡng để giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa kết quả sau phẫu thuật.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vạt tại chỗ":

Một yếu tố nhân tế bào được kích thích bởi thiếu oxy thông qua tổng hợp protein mới gắn vào yếu tố tăng cường gen erythropoietin của người tại một vị trí cần thiết cho hoạt hóa phiên mã. Dịch bởi AI
Molecular and Cellular Biology - Tập 12 Số 12 - Trang 5447-5454 - 1992

Chúng tôi đã xác định được một yếu tố tăng cường dài 50 nucleotide từ trình tự ngoại vi 3' của gen erythropoietin ở người, có khả năng trung gian cho việc kích thích phiên mã gấp bảy lần khi được nhân bản ở vị trí 3' của gen báo cáo promoter-chloramphenicol acetyltransferase do virus simian 40 điều khiển và được biểu hiện tạm thời trong các tế bào Hep3B. Các nucleotide (nt) từ 1 đến 33 của trình tự này trung gian cho việc kích thích gấp bảy lần biểu hiện gen báo cáo khi có mặt dưới dạng hai bản sao liên tiếp, so với việc kích thích gấp ba lần khi có mặt dưới dạng một bản sao đơn, cho thấy rằng các nt từ 34 đến 50 gắn với một yếu tố làm tăng cường tín hiệu kích thích. Phân tích dấu vết DNase I đã chứng minh sự gắn kết của một yếu tố hạt nhân cấu trúc với các nt từ 26 đến 48. Các nghiên cứu đột biến đã chỉ ra rằng các nt từ 4 đến 12 và từ 19 đến 23 là thiết yếu cho việc kích thích, vì việc thay thế tại bất kỳ vị trí nào đã loại bỏ biểu hiện do thiếu oxy. Các thử nghiệm dịch chuyển di electrophoretic đã xác định một yếu tố hạt nhân gắn với một đầu dò bao gồm các nt từ 1 đến 18 nhưng không gắn với một đầu dò chứa một đột biến đã vô hiệu hóa chức năng tăng cường. Việc gắn kết của yếu tố này đã được kích thích bởi thiếu oxy và sự kích thích này nhạy cảm với điều trị cycloheximide. Chúng tôi đã định nghĩa một yếu tố tăng cường có chức năng ba phần, dài 50 nt, có thể kích thích bởi thiếu oxy và gắn kết với một số yếu tố hạt nhân, một trong số đó được kích thích bởi thiếu oxy thông qua tổng hợp protein mới.

Vật liệu sinh học từ Alginate cho ứng dụng trong y học tái sinh Dịch bởi AI
Materials - Tập 6 Số 4 - Trang 1285-1309

Alginate là một polyme polysaccharide tự nhiên thể hiện tính tương thích sinh học và khả năng phân huỷ sinh học xuất sắc, có nhiều ứng dụng khác nhau trong lĩnh vực y sinh học. Alginate có thể được chế biến dễ dàng thành các vật liệu giá thể ba chiều có thể áp dụng như hydrogel, vi cầu, vi nang, bọt biển, bọt xốp và sợi. Vật liệu sinh học dựa trên alginate có thể được sử dụng làm hệ thống dẫn truyền thuốc và là phương tiện mang tế bào trong kỹ thuật mô. Alginate có thể dễ dàng biến đổi thông qua các phản ứng hoá học và vật lý để thu được các dẫn xuất có cấu trúc, tính chất, chức năng và ứng dụng khác nhau. Việc điều chỉnh cấu trúc và tính chất như khả năng phân hủy sinh học, độ bền cơ học, tính chất gel hóa và ái lực tế bào có thể đạt được thông qua kết hợp với các vật liệu sinh học khác, cố định hóa các ligand cụ thể như peptide và phân tử đường, và liên kết chéo vật lý hoặc hoá học. Bài tổng quan này tập trung vào những tiến bộ gần đây trong việc sử dụng alginate và các dẫn xuất của nó trong lĩnh vực ứng dụng y học, bao gồm chữa lành vết thương, phục hồi sụn, tái tạo xương và dẫn truyền thuốc, những điều này có tiềm năng trong ứng dụng tái tạo mô.

#alginate #vật liệu sinh học #y học tái sinh #chữa lành vết thương #sửa chữa sụn #tái tạo xương #dẫn truyền thuốc #công nghệ mô.
Tái cấu trúc mạng lưới chuyển hóa quy mô gen ở Staphylococcus aureus N315: bản nháp ban đầu cho chú thích hai chiều Dịch bởi AI
BMC Microbiology - - 2005
Tóm tắt Giới thiệu

Nhiều chủng vi khuẩn đã được giải trình tự và chú thích bộ gen, các bộ gen này đã được sử dụng cùng với dữ liệu sinh hóa và sinh lý để tái cấu trúc các mạng lưới chuyển hóa quy mô gen. Việc tái cấu trúc này tương đương với việc chú thích hai chiều về bộ gen. Các mạng lưới này đã được phân tích thông qua một hình thức dựa trên ràng buộc, và nhiều kết quả có ý nghĩa sinh học đã xuất hiện. Staphylococcus aureus là một loại vi khuẩn gây bệnh đã phát triển khả năng kháng nhiều loại kháng sinh, gây ra mối quan tâm lớn trong chăm sóc sức khỏe. Chúng tôi trình bày việc xây dựng mô hình tái cấu trúc và mô hình mạng lưới chuyển hóa quy mô gen duy nhất được quản lý thủ công của S. aureus và tính toán một số thuộc tính của nó.

Kết quả

Chúng tôi đã tái cấu trúc một mạng lưới chuyển hóa quy mô gen của chủng S. aureus N315. Việc tái cấu trúc này, được gọi là iSB619, bao gồm 619 gen xúc tác 640 phản ứng chuyển hóa. Đối với 91% các phản ứng, khung đọc mở (open reading frames) được liên kết một cách rõ ràng với các protein và phản ứng. Tất cả, ngoại trừ ba phản ứng chuyển hóa, đều được cân bằng về điện tích và nguyên tố. Danh sách phản ứng là đầy đủ nhất cho đến nay đối với loại vi khuẩn gây bệnh này. Khi khả năng của mạng lưới tái cấu trúc được phân tích trong bối cảnh tăng trưởng tối đa, chúng tôi hình thành các giả thuyết về yêu cầu tăng trưởng, hiệu quả tăng trưởng trên các nguồn carbon khác nhau, và các mục tiêu thuốc tiềm năng. Những giả thuyết này có thể được kiểm tra thực nghiệm và dữ liệu thu thập có thể được sử dụng để cải thiện các phiên bản tái cấu trúc tiếp theo.

#Staphylococcus aureus #mạng lưới chuyển hóa #tái cấu trúc quy mô gen #kháng sinh #sinh lý học vi sinh vật.
Sử dụng và trao đổi tài nguyên di truyền trong nuôi trồng động vật thân mềm Dịch bởi AI
Reviews in Aquaculture - Tập 1 Số 3-4 - Trang 251-259 - 2009
Tóm tắt

Động vật thân mềm là một trong những loài nuôi trồng chủ lực trên toàn cầu. Nuôi trồng động vật thân mềm chiếm khoảng 27% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới. Việc sử dụng và trao đổi tài nguyên di truyền đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nuôi trồng động vật thân mềm. Việc giới thiệu và sử dụng các loài không bản địa đã có ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng hàu và ngao; ví dụ, hàu Thái Bình Dương, được chuyển ra từ Nhật Bản, đã hỗ trợ cho các ngành công nghiệp nuôi trồng lớn tại nhiều quốc gia ở Bắc và Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Á, và Châu Phi. Ngao vịnh được giới thiệu từ Hoa Kỳ đã đóng góp sản lượng hàng năm hơn 600.000 tấn tại Trung Quốc. Tài nguyên di truyền không bản địa cũng đã được sử dụng để cải thiện di truyền cho các loài bản địa thông qua lai chéo giữa các loài và trong cùng một loài. Các dòng di truyền độc đáo, chẳng hạn như các giống kháng bệnh, đã được phát triển thông qua chọn giống ở một số động vật thân mềm, mặc dù cần nhiều nỗ lực hơn nữa. Mặc dù tầm quan trọng của tài nguyên di truyền là rõ ràng, nhưng việc xác định, bảo vệ và sử dụng tài nguyên di truyền động vật thân mềm vẫn là một thách thức.

#nuôi trồng động vật thân mềm #tài nguyên di truyền #hàu #ngao #cải thiện gen #chọn giống
LIỀU TIÊM CORTICOSTEROID TẠI CHỖ SO VỚI LIỆU PHÁP VẬT LÝ LOẠI CYRIAX TRONG ĐIỀU TRỊ ĐAU KHUỶU GẬY Dịch bởi AI
British Editorial Society of Bone & Joint Surgery - Tập 78-B Số 1 - Trang 128-132 - 1996

Chúng tôi đã tiến hành một thử nghiệm ngẫu nhiên và có kiểm soát trên 106 bệnh nhân để so sánh tác dụng của tiêm corticosteroid tại chỗ với vật lý trị liệu theo phương pháp của Cyriax trong điều trị bệnh đau khuỷu gậy. Các chỉ số kết quả chính bao gồm mức độ đau, đau gây ra bởi việc kháng sức giơ cổ tay lên, và sự hài lòng của bệnh nhân.

Sau sáu tuần, 22 trên 53 bệnh nhân trong nhóm tiêm đã không còn đau so với chỉ có ba bệnh nhân trong nhóm vật lý trị liệu. Trong nhóm điều trị corticosteroid, 26 bệnh nhân không cảm thấy đau khi kháng sức giơ cổ tay lên so với chỉ ba bệnh nhân trong nhóm vật lý trị liệu. Ba mươi lăm bệnh nhân đã nhận tiêm và 14 bệnh nhân đã nhận vật lý trị liệu hài lòng với kết quả điều trị sau sáu tuần. Trong đợt đánh giá cuối cùng, đã có 18 kết quả "xuất sắc" và 18 "tốt" trong nhóm corticosteroid, và một kết quả "xuất sắc" và 12 "tốt" trong nhóm vật lý trị liệu. Có một sự tăng đáng kể về sức bóp nắm trong cả hai nhóm, nhưng nhóm tiêm có kết quả tốt hơn đáng kể.

Sau một năm, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. Tuy nhiên, một nửa số bệnh nhân chỉ nhận điều trị ban đầu, 20% đã thực hiện liệu pháp kết hợp và 30% đã phẫu thuật.

Chúng tôi kết luận rằng, sau sáu tuần, điều trị với tiêm corticosteroid hiệu quả hơn phương pháp vật lý trị liệu của Cyriax, và chúng tôi khuyến nghị sử dụng vì tác dụng nhanh chóng, làm giảm đau và không có tác dụng phụ.

#corticosteroid tại chỗ #liệu pháp vật lý loại Cyriax #đau khuỷu gậy #đau #sức bóp nắm #thử nghiệm ngẫu nhiên #bệnh nhân hài lòng #tai biến
Synthesis and solvatochromic and acid-base reactions of a betaine and salts of 4-N-pyridiniumcatechol
Chemistry of Heterocyclic Compounds - Tập 29 Số 12 - Trang 1428-1434 - 1993
What Motivates Green Living? A Qualitative Investigation of Sustainable Life Choices
Human Arenas - Tập 1 Số 4 - Trang 409-430 - 2018
Tổng số: 174   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10